Hội thảo tham vấn nghiên cứu "Phát triển kinh tế sáng tạo: Xu hướng, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị đối với Việt Nam"
Hoạt động nghiên cứu

Hội thảo tham vấn nghiên cứu "Phát triển kinh tế sáng tạo: Xu hướng, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị đối với Việt Nam"

12/03/2024 - 2720 lượt xem

Trong khuôn khổ Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh do Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) thực hiện tại Việt Nam theo ủy quyền của Bộ Hợp tác và Phát triển Kinh tế Liên bang Đức (BMZ), ngày 12/3/2024, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo tham vấn nghiên cứu "Phát triển kinh tế sáng tạo: Xu hướng, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị đối với Việt Nam". TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM chủ trì Hội thảo. Tham dự Hội thảo có các chuyên gia kinh tế, đại diện các Bộ ngành, các cán bộ nghiên cứu và cơ quan truyền thông đến đưa tin.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM  chia sẻ: Sau hơn 36 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu sâu rộng trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng nhưng vẫn phải đối diện với những rủi ro, thách thức liên quan đến mức độ bền vững của tăng trưởng. Tăng trưởng vẫn dựa đáng kể vào gia tăng nguồn lực đầu vào và các ngành thâm dụng lao động/tài nguyên; trong khi đó, đóng góp của các nhân tố gắn trực tiếp với cải thiện chất lượng, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh còn chưa tương xứng với kỳ vọng. Việc duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao là điều kiện bắt buộc để Việt Nam đạt các mục tiêu trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế trong tương lai của đất nước sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn hơn khi các đầu vào tăng tưởng truyền thống như: vốn, lao động phổ thông, đất đai, tài nguyên thiên nhiên đang dần đạt ngưỡng giới hạn. Vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 đã nhấn mạnh sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số nhằm tạo đột phá về năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.

TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM

TS. Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh, là cơ quan nghiên cứu và tham mưu hàng đầu cho Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong những năm qua, CIEM đã phải không ngừng nghiên cứu, kiến nghị các nội dung cải cách thể chế kinh tế một cách toàn diện, nâng cao năng lực nội tại và chất lượng tăng trưởng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất lao động. Trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức kể từ năm 2020, CIEM đã luôn tìm tòi, tham mưu các đề xuất chính sách nhằm mở rộng không gian kinh tế mới gắn với những nguồn lực “phi truyền thống” như: thời gian, dữ liệu,…hay dựa trên những tư duy tổ chức sản xuất mới trên nền tảng công nghệ số, thiết kế các hoạt động theo hướng tuần hoàn, liên kết vùng…

Khái niệm kinh tế sáng tạo (KTST) đã ra đời và liên tục được điều chỉnh trong hơn ba thập kỷ qua. Với tư duy thúc đẩy nền KTST, mỗi nền kinh tế cũng có thể tận dụng khung chính sách hiện có trên các mô hình kinh tế khác. Các dịch vụ sáng tạo ở không ít nền kinh tế được đánh giá là có sức chống chịu và khả năng phục hồi tốt hơn trong thời kỳ đại dịch. Quan trọng hơn, tư duy về KTST giúp hoàn thiện chính sách để các ý tưởng sáng tạo có đủ điều kiện, chu trình từ hình thành, sản xuất, cung ứng, phân phối và kể cả xuất khẩu, từ đó mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho nền kinh tế, lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp, và thu nhập cao hơn cho người lao động.

Theo TS. Trần Thị Hồng Minh, Việt Nam đã nhận thấy tiềm năng phát triển của KTST. Tuy nhiên, các thảo luận gần đây chủ yếu mang tính chất sơ khởi, chưa có cơ sở chặt chẽ trên nền tảng nghiên cứu khoa học bài bản, chưa có các hàm ý chính sách đủ chặt chẽ, khả thi và chưa có khái niệm cụ thể về KTST phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Khảo sát của CIEM tại một số địa phương trong thời gian qua cũng cho thấy cách hiểu khác nhau về KTST, thậm chí thiếu sự phân định rạch ròi với đổi mới sáng tạo. Do KTST còn tương đối mới, Việt Nam gặp phải tình trạng thiếu các dữ liệu cập nhật, thường xuyên và chi tiết để phân tích các nội dung liên quan. Từ thực tiễn đó, CIEM đã đề xuất việc thực hiện nghiên cứu về “Phát triển KTST: Xu hướng, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị đối với Việt Nam”.

Hội thảo nhằm giới thiệu những kết quả nghiên cứu bước đầu nên CIEM mong muốn nhận được sự quan tâm, thảo luận và góp ý của các chuyên gia, đại biểu để sớm hoàn thiện báo cáo nghiên cứu.

Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban, Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM

Tiếp đó, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban, Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM, đại diện nhóm Nghiên cứu của CIEM trình bày những kết quả nghiên cứu ban đầu của Báo cáo: tập trung vào hệ thống hóa các khái niệm cơ bản của kinh tế sáng tạo, rà soát các xu hướng phát triển chủ yếu của kinh tế sáng tạo trong khu vực và trên thế giới và kinh nghiệm của một số quốc gia trong phát triển kinh tế sáng tạo, từ đó đối chiếu với thực trạng ở Việt Nam và đề ra các kiến nghị chính sách.

Theo ông Dương, KTST trên thế giới phát triển theo xu hướng chủ yếu là xuất khẩu hàng hoá sáng tạo và xuất khẩu dịch vụ sáng tạo. Đối với xuất khẩu hàng hoá sáng tạo (XKHHST): XKHHST toàn cầu tăng trưởng đáng kể trong thời gian qua do nhiều nước trên thế giới đang triển khai các biện pháp hỗ trợ công nghiệp văn hoá và sáng tạo. Tăng từ 208 tỷ USD (2002) lên 524 tỷ USD (2020), trong đó châu Á là khu vực xuất khẩu lớn nhất (từ năm 2007). Trung Quốc có đóng góp lớn nhất trong tổng XKHHST toàn cầu (32%). Cơ cấu XKHHST có sự thay đổi đáng kể từ 2006 đến nay. Xuất khẩu đĩa CD, DVD, băng, báo và các tài liệu in khác giảm đáng kể, trong khi xuất khẩu phương tiện truyền thông ghi âm và trò chơi điện tử tăng mạnh.Tỷ trọng HHST trong tổng hàng hoá xuất khẩu ở khu vực châu Á ngày một tăng lên trong khi ở các khu vực khác như châu Âu, Bắc Mỹ, Mỹ Latinh có xu hướng giảm. Một số nước kém phát triển dù có XKHHST không đáng kể nhưng ngày một có ý nghĩa quan trọng (khu vực châu Phi). Về sản phẩm xuất khẩu chính, hàng thiết kế chiếm ưu thế (62,9% năm 2020). Đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến xuất khẩu của tất cả các nhóm sản phẩm sáng tạo ngoại trừ các sản phẩm truyền thông mới (18,1%).

Ông Dương cũng nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa các nhóm HHST được xuất khẩu giữa nhóm các nước đang phát triển và các nước phát triển. Các nước phát triển thống trị xuất khẩu xuất bản, nghệ thuật thị giác và nghe nhìn, trong khi các nước đang phát triển thống trị xuất khẩu thiết kế và thủ công mỹ nghệ. Xuất bản, nghệ thuật thị giác, và nghe nhìn chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều trong XKST của các nền kinh tế phát triển so với các nền kinh tế đang phát triển.

Về Xuất khẩu dịch vụ sáng tạo (XKDVST): XKDVST trên thế giới đã tăng từ 487 tỷ USD năm 2010 lên gần 1,1 nghìn tỷ USD vào năm 2020. Xuất khẩu các dịch vụ sáng tạo đã vượt xa XKHHST do sự gia tăng mạnh mẽ trong xuất khẩu phần mềm, dịch vụ nghiên cứu và phát triển cũng như số hóa một số HHST. XKDVST có khả năng phục hồi tốt hơn vào năm 2020 trong thời kỳ đại dịch COVID-19. Các nước phát triển có thế mạnh trong XKDVST hơn các nước đang phát triển, song khoảng cách giữa hai nhóm quốc gia này đang dần thu hẹp.

Thực trạng KTST tại Việt Nam cho thấy, Việt Nam đứng thứ 8 trên thế giới xét về giá trị HHXK (2020). Các ngành KTST gồm có: (i) Thủ công mỹ nghệ; (ii) Thời trang và thiết kế; (iii) Nghệ thuật ẩm thực; (iv) Nghệ thuật biểu diễn; (v) Nghệ thuật tạo hình; (vi) Phim & Truyền thông; (vii) CNTT và kỹ thuật phần mềm; (viii) Du lịch & Di sản văn hoá; (ix) Âm nhạc & Giải trí; (x) Xuất bản & Văn học; (xi) Sáng tạo nội dung số (blog, vlog, podcast và tạo nội dung trên mạng xã hội); (xii) Tiếp thị và quảng cáo số. Nhân tố hỗ trợ KTST tại Việt Nam bao gồm: (i) dân số trẻ, hiểu biết về công nghệ; (ii) chính sách tạo thuận lợi của Nhà nước; (iii) di sản văn hoá phong phú; (iv) quá trình số hoá diễn ra nhanh chóng; (v) tăng cường hội nhập với kinh tế toàn cầu.

Mặc dù có nhiều chính sách, cơ chế ưu đãi, cấp vốn cho các dự án KNST, ĐMST nhưng còn nhiều vướng mắc trong thực hiện. Qua khảo sát tại một số địa phương (như Phú Thọ, Sơn La, Phú Yên) cho thấy KTST còn là nội dung rất mới và chưa được hiểu một cách nhất quán song các địa phương đã có những hỗ trợ nhất định đối với các sản phẩm sáng tạo trên địa bàn như đăng ký nhãn hiệu, tư vấn chính sách, pháp luật cho doanh nghiệp.v.v. Từ đó, nhóm nghiên cứu đưa ra một số chính sách liên quan nhằm thúc đẩy sự phát triển của KTST tại Việt Nam.

Bà Nguyễn Thị Hoàng Hạnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo và hỗ trợ, Tư vấn, Cục Sở hữu trí tuệ 

Tại Hội thảo, Bà Nguyễn Thị Hoàng Hạnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo và hỗ trợ, Tư vấn, Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) đã có tham luận chia sẻ về quyền sở hữu trí tuệ trong KTST. Theo bà Hạnh, một số vấn đề cần quan tâm đó là làm thế nào để SHTT trở thành công cụ hữu hiệu trong KTST. Việc sáng tạo không ngừng, năng lực cạnh tranh và cơ hội kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố và cần sự quyết đoán. Quyền SHTT cần đảm bảo nguyên tắc cân bằng lợi ích. Bên cạnh đó, vấn đề về phát triển hệ thống SHTT tương thích với “KTST + cam kết quốc tế + lợi ích quốc gia”: điều chỉnh nhưng đảm bảo sự ổn định, bền vững. Cơ chế, chính sách, pháp luật nên đồng bộ, kịp thời, khả thi và có yếu tố dự báo. Nguồn lực (nhân lực và vật lực) để đáp ứng các yêu cầu đó. Các cấp, lĩnh vực và cá nhân cần nhận thức kịp thời, chuẩn xác. Vai trò, lợi ích và trách nhiệm giữa các bên tham gia cần phải rõ ràng.

Bà Hạnh nhấn mạnh thêm, SHTT là xương sống/huyết mạch của KTST vì vậy, đối với các Bộ/ngành cần có các giải pháp cụ thể hơn và xác định vấn đề ưu tiên trong từng giai đoạn. Ngoài ra, lợi ích, nhu cầu của các nhóm chủ thể nên hài hòa, cân bằng nhưng chỉ có thể tương đối và có thể điều chỉnh kịp thời nếu cần.

TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu cạnh tranh

TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu cạnh tranh chia sẻ về hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế sáng tạo cho thấy: Cách đây 10 năm, CIEM là cơ quan nghiên cứu đầu tiên và xuất bản cuốn sách Asian Hub về dịch vụ quốc tế, trong đó có 2 lĩnh vực nghiên cứu về KTST là thiết kế và thời trang. KTST bắt nguồn từ ngành công nghiệp sáng tạo, ở Việt Nam hiện nay còn gọi là công nghiệp văn hóa. Sáng tạo dựa trên nền tảng ngôn ngữ, âm thanh, chữ viết,… để tạo ra những sản phẩm sáng tạo.. Như vậy, kinh tế sáng tạo  giao thoa rất nhiều lĩnh vực. Theo TS. Võ Trí Thành, cần có chiến lược, có quy hoạch trong đó xây dựng những chính sách ưu tiên. Các địa phương cần có những chính sách nhằm kích cầu du lịch kết hợp phát triển KTST như chương trình pháo hoa ở Đà Nẵng. Đối với hợp tác trong khu vực ASEAN, bên cạnh việc thúc đẩy học hỏi, giao lưu có thể nghiên cứu, xem xét việc xây dựng quỹ ASEAN, thương hiệu ASEAN...

Bên cạnh đó, các đại biểu tham dự Hội thảo cũng trao đổi và đề cập tới việc làm rõ các đặc trưng của nền KTST, đo lường nền KTST và chỉ ra một số lĩnh vực nổi trội của nền KTST ...

Toàn cảnh Hội thảo

Phát biểu bế mạc Hội thảo, Viện trưởng Trần Thị Hồng Minh gửi lời cảm ơn tới Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) đã hỗ trợ CIEM thực hiện nghiên cứu, cảm ơn những ý kiến quý báu của các đại biểu đã đóng góp tại Hội thảo. Viện trưởng cho biết, Báo cáo tập trung vào khai thác những giá trị phát huy được tối đa tiềm năng, tài năng của con người Việt Nam, thông qua các công cụ định hướng, chính sách về KTST nhằm đưa ra các đề xuất, kiến nghị phù hợp nhất. CIEM sẽ tiếp tục đón nhận các ý kiến từ các chuyên gia, các Bộ, ngành nhằm hoàn thiện Báo cáo./.

 

Nguồn: Trung tâm Thông tin kinh tế - xã hội

 

 

 

 

 

 


Tin tức khác