Quốc hội tổ chức Tọa đàm tham vấn chuyên gia về kinh tế - xã hội
TIÊU ĐIỂM TIN

Quốc hội tổ chức Tọa đàm tham vấn chuyên gia về kinh tế - xã hội

27/09/2021 - 8393 lượt xem

Sáng ngày 27/9 tại Hà Nội, Văn phòng Quốc hội phối hợp cùng Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức Tọa đàm tham vấn chuyên gia về kinh tế- xã hội dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ. Tham dự Tọa đàm  Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cùng lãnh đạo các ủy ban của Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia kinh tế. Về phía đại biểu quốc tế, có bà Carolyn Turk, Giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam, ông Andrew Jeffries, Giám đốc Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam... TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tham dự và có bài tham luận tại Tọa đàm.  

 Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì . Ảnh: Quochoi.vn

Mở đầu cho các bài trình bày tại Tọa đàm, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM có báo cáo tham luận “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022”. Tham luận cho thấy về tình tình kinh tế trong và ngoài nước, kể từ đầu năm 2021 trở lại đây, bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục có những diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường do dịch bệnh Covid 19, cạnh tranh địa chính trị, căng thẳng thương mại v.v, song cũng đã xuất hiện những tín hiệu tích cực. Các tổ chức quốc tế đã có những đánh giá lạc quan, dù còn khá thận trọng, về đà phục hồi kinh tế trong năm 2021. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vào tháng 7 vừa rồi dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2021 ở mức 6,0%. Đây cũng là kết quả cập nhật dự báo của Fitch Ratings vào trung tuần tháng 9 vừa qua. Bên cạnh các biện pháp kích thích tài khóa – tiền tệ, các nền kinh tế trên thế giới đã đẩy mạnh trao đổi, hợp tác, cụ thể hóa chính sách để tìm kiếm những không gian kinh tế mới. Chẳng hạn, các hiệp định thương mại tự do FTA tiếp tục diễn biến sôi động, nổi bật nhất là Hiệp định CPTPP với việc Trung Quốc và Đài Bắc Trung Hoa đều vừa đệ đơn xin gia nhập, hay Các Hiệp định Đối tác Kinh tế số của Singapore với Úc, với Niu Di-lân và với Chi-lê đang được lưu tâm rất nhiều vì những tiêu chuẩn cao gắn với thương mại số, dịch chuyển dữ liệu, v.v.

Dù vậy, theo báo cáo tham luận của TS. Trần Thị Hồng Minh các nghiên cứu và thảo luận chính sách đều nhận định đà phục hồi tăng trưởng kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng của ba nhóm rủi ro chính. Thứ nhất, dịch bệnh COVID vẫn diễn biến phức tạp, kể cả ở những quốc gia đã làm chủ công nghệ vắc-xin, tham gia chuỗi cung ứng vắc-xin hay có tỷ lệ tiêm chủng cao (như Mỹ, Ấn Độ, Anh, v.v.). Đáng lưu ý, năm 2021 đã là năm thứ hai mà thế giới phải chung tay đối mặt với dịch bệnh COVID, qua đó cho thấy mức độ phức tạp và khó khăn khi ứng phó với dịch bệnh này ở tất cả các nền kinh tế. Một hệ lụy trong bối cảnh dịch bệnh là gián đoạn chuỗi cung ứng. Kết quả khảo sát của NTT Data mới công bố ngày 20/9 vừa qua cho thấy 83% công ty vận tải bị gián đoạn trong hoạt động cung ứng các nguyên liệu chính trong năm 2021. Thứ hai, cạnh tranh địa chính trị diễn ra rất phức tạp. Ngay cả ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, các động thái cạnh tranh diễn ra khá sâu rộng từ những lĩnh vực kinh tế, thương mại, công nghệ, hạ tầng, chuỗi giá trị cho tới các lĩnh vực an ninh phi truyền thống liên quan đến biến đổi khí hậu, khan hiếm nguồn lực, hay nguồn gốc dịch bênh Covid. Thứ ba là nhóm rủi ro liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát và rủi ro nợ. Dự báo của Economist Intelligence Unit cập nhật vào ngày 14/9/2021 cho thấy giá hầu hết các nhóm mặt hàng trong năm nay có thể tăng từ 17,0-61,9% trên thị trường thế giới. Rủi ro nợ được cảnh báo nhiều hơn do khó khăn kéo dài và do các biện pháp kích thích tài khóa – tiền tệ quy mô lớn. Một ví dụ mới nhất mà chúng ta có thể thấy rõ là tình trạng tài chính của Tập đoàn Evergrande của Trung quốc. Với quy mô nợ được cho lên tới hơn 300 tỷ USD, nếu tập đoàn này vỡ nợ thì có thể gây ra những tác động rất nghiêm trọng đối với thị trường tài chính Trung Quốc cũng như thị trường toàn chính toàn cầu.

 TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phát biểu tại Tọa đàm. Ảnh: Quochoi.vn

Báo cáo cũng cho thấy về tình hình trong nước, diễn biến dịch COVID-19 kéo dài – nhất là từ cuối tháng 4/2021 đến nay – đã có tác động hết sức nghiêm trọng đối với đời sống xã hội và kinh tế. Đến nay, dù diễn biến dịch còn phức tạp, nhưng công tác phòng chống dịch đã có những chuyển biến cơ bản, đặc biệt là về công tác ngoại giao vắc-xin và đẩy nhanh tốc độ tiêm chủng cho người dân. Chính phủ vẫn hướng tới “mục tiêu kép”, song cũng lắng nghe, cân nhắc với tinh thần cầu thị hơn với những đề xuất mới, như đề xuất cho phép các nhà máy trong khu công nghiệp duy trì sản xuất trong điều kiện bảo đảm phòng chống dịch, đề xuất cho phép doanh nghiệp chủ động nhập vắc-xin, v.v. Nhờ đó, Chính phủ và nhiều ngành, địa phương đã có điều kiện để cân nhắc tích cực hơn các kịch bản, lộ trình và biện pháp mở cửa trở lại nền kinh tế, hướng tới phục hồi và phát triển kinh tế trong trạng thái bình thường mới. Bên cạnh đó, Chính phủ vẫn ưu tiên bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định xã hội; tiếp tục thực hiện các biện pháp thuế, tín dụng, trợ cấp cho người lao động, v.v. để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, trên tinh thần đơn giản hóa điều kiện và rút ngắn thời gian tiếp cận để các nhóm này giảm bớt khó khăn do dịch bệnh.

Viện trưởng cho rằng, những kết quả ấy một phần quan trọng là nhờ các nỗ lực điều hành và cải cách nhằm duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người lao động. Trong đó, Quốc hội đã luôn đồng hành, chia sẻ và ủng hộ các quyết sách của Chính phủ về phòng chống dịch, cũng như tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất – kinh doanh. Mới đây, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 30, trong đó phần lớn dung lượng là các giải pháp chưa có tiền lệ được trao cho Chính phủ để tăng cường phòng, chống dịch. Tiếp đó là Nghị quyết 268 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết có một số nội dung khác với quy định của luật để đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch COVID. Và gần đây nhất, vào ngày 24.9 vừa qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 03 về hỗ trợ người lao động và chủ sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Về phía Chính phủ đã giữ được sự bao quát, quyết liệt và khoa học để có những đánh giá, chuẩn bị các kịch bản điều hành, và thực thi chính sách phát triển kinh tế - xã hội tương đối phù hợp, kịp thời, dù bối cảnh thay đổi nhanh và phức tạp. Bên cạnh đó, Chính phủ đã chủ động tham vấn cộng đồng doanh nghiệp để có những quyết sách giữ đà cải cách thể chế kinh tế ngay cả trong giai đoạn khó khăn do dịch bệnh. Chính phủ đã tiếp tục đề ra nhiều giải pháp, nhiệm vụ cải cách nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, thúc đẩy thực hiện hiệu quả các FTA mới, v.v.Sự quyết liệt cải cách của Việt Nam cũng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Việt Nam đã nổi lên là một hình mẫu về cải cách thể chế kinh tế ở khu vực, được các nền kinh tế thành viên Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tín nhiệm, ủng hộ giữ vai trò Trưởng nhóm xây dựng Chương trình nghị sự mở rộng của APEC về cải cách cơ cấu giai đoạn 2021-2025.

Tuy nhiên, TS. Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh, nền kinh tế của chúng ta vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, hệ lụy nghiêm trọng từ dịch bệnh COVID. Ở bên ngoài, các thị trường xuất khẩu sử dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế hàng hóa nhập khẩu, trong đó có hàng hóa Việt Nam. Rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng đã làm tăng chi phí đáng kể cho doanh nghiệp xuất khẩu cũng như doanh nghiệp hoạt động thương mại trong nước. Bên cạnh đó, dù có nhiều cố gắng cải thiện, công tác điều hành và chất lượng các văn bản chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, bất cập. Trong khi phòng chống dịch, một số địa phương chưa thực hiện đúng, đồng bộ các quy trình, biện pháp liên quan để giảm thiểu tác động tiêu cực đối với hoạt động lưu thông hàng hóa giữa các địa phương. Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp như giãn, hoãn thuế, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí, v.v. chưa đủ “sức nặng” cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp. Một số quy định về hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do dịch bệnh vừa đi vào thực hiện song cũng gặp phải vấn đề phát sinh và đã có những đề xuất sửa đổi điều kiện, quy trình hỗ trợ, hay mở rộng đối tượng hỗ trợ. Bên cạnh đó, dù có đề cập đến nhiều lĩnh vực mới để tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế như kinh tế số, kinh tế tuần hoàn nhưng các thông tin, số liệu chính thống phục vụ cho đánh giá chính sách ở các mảng lĩnh vực này hiện còn thiếu rất nhiều.

Đề cập tới một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam năm 2022, Viện trưởng CIEM cho thấy triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022 có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố sau:

Thứ nhất, khả năng kiểm soát dịch. Nếu chúng ta kiểm soát nhanh và hiệu quả dịch bệnh, đẩy mạnh tiêm vắc-xin gắn với lộ trình mở cửa nền kinh tế phù hợp, có sự hợp tác tích cực của doanh nghiệp, người dân, thì hệ lụy đối với nền kinh tế, đặc biệt là các trung tâm kinh tế, sẽ được giảm bớt.

Thứ hai, khả năng bảo đảm phục hồi sản xuất. Nếu đầu tư công được giải ngân tốt hơn và vốn tín dụng được điều tiết hiệu quả hơn vào các lĩnh vực sản xuất, thì tác động lan tỏa trong việc phục hồi và thúc đẩy sản xuất sẽ tích cực hơn. Bên cạnh đó, nếu gắn phục hồi sản xuất với thu hút và hợp tác hiệu quả với nhà đầu tư nước ngoài, rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng cũng sẽ giảm đáng kể. Đồng thời, phục hồi sản xuất cũng là điều kiện quan trọng để tận dụng các cơ hội từ đà phục hồi của kinh tế thế giới, đặc biệt khi Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại tự do quan trọng như  EVFTA, CPTPP, và chuẩn bị đón đầu cơ hội từ Hiệp định RCEP.

Thứ ba, khả năng bắt nhịp thực hiện một chương trình sâu rộng về phục hồi và phát triển kinh tế. Trên cơ sở thông tin và nghiên cứu hiện có đến nay, chúng tôi cho rằng Chương trình này cần có khung thời gian ít nhất đến năm 2023, để không chỉ tháo gỡ khó khăn, tạo động lực trong ngắn hạn, mà còn phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng cho các cải cách thể chế kinh tế mạnh mẽ hơn trong 3-5 năm tới. Nếu tư duy chính sách có thể lồng ghép hiệu quả việc tìm kiếm những mô hình, không gian kinh tế mới thay vì chỉ bó vào kích thích tài khóa- tiền tệ, kinh tế Việt Nam sẽ có thêm điều kiện để phục hồi, hướng tới phát triển bền vững, nâng cao năng lực nội tại, khả năng chống chịu và sức cạnh tranh trong tương lai. Trên cơ sở đó, TS. Trần Thị Hồng Minh đưa ra một số kiến nghị chính sách:

Thứ nhất, ưu tiên tiếp tục phòng chống và kiểm soát dịch COVID-19 hiệu quả, cùng với đẩy nhanh tiến trình tiêm vắc-xin.

Thứ hai, sớm xây dựng và thực hiện Chương trình tổng thể về phục hồi và phát triển kinh tế trong và sau dịch bệnh. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW công bố vào tháng 4/2021 đã kiến nghị ba giai đoạn trong chương trình phục hồi kinh tế, cụ thể như sau:

Giai đoạn 1 (đến quý I/2022): ưu tiên phòng chống dịch, kết hợp với chính sách kinh tế vĩ mô (kể cả thúc đẩy giải ngân đầu tư công) để hỗ trợ cho doanh nghiệp “trụ vững” qua thời kỳ khó khăn, và duy trì cải cách môi trường kinh doanh để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Giai đoạn 2 (đến hết 2023): sau khi kiểm soát dịch COVID-19, tiến hành nới lỏng chính sách kinh tế vĩ mô để kích cầu cho nền kinh tế, đồng thời tạo thêm “sức bật” cho doanh nghiệp. Tăng cường cải cách môi trường kinh doanh để tạo thêm không gian cho doanh nghiệp.

Giai đoạn 3 (sau 2023): Bình thường hóa chính sách kinh tế vĩ mô, hướng tới củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, và thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế sâu rộng hơn.

Thứ ba, cần vận dụng các chính sách kinh tế vĩ mô linh hoạt theo các kịch bản để ứng phó với các diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới và khu vực (cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung Quốc, diễn biến dịch COVID, kịch bản thương mại với Mỹ, hay rủi ro khủng hoảng nợ toàn cầu,).

Thứ tư, cần đẩy mạnh đa dạng hóa xuất khẩu, trên cơ sở nghiên cứu, nắm bắt thông tin kịp thời về các thị trường, sản phẩm còn dư địa khai thác trong bối cảnh dịch bệnh cũng như khả năng đáp ứng các FTA quan trọng.  Đồng thời cần nghiên cứu, khuyến khích các mô hình kinh tế mới để tạo thêm không gian kinh tế cho các hoạt động sản xuất- kinh doanh nội địa.

Toàn cảnh buổi Tọa đàm. Ảnh: Quochoi.vn

Cuối cùng, Viện trưởng nhấn mạnh cần đẩy nhanh tiến độ triển khai các gói hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đã ban hành; thường xuyên đánh giá kết quả thực hiện các gói hỗ trợ và tiến hành tháo gỡ ngay những vướng mắc trong quá trình thực hiện.  Đối với Quốc hội, trong thời gian tới, Quốc hội có thể cân nhắc một số nội dung quan trọng như phát huy hơn nữa công tác xây dựng luật để bảo đảm tính kịp thời, chất lượng, giảm chồng chéo, qua đó củng cố khung khổ pháp lý để vận hành hiệu quả nền kinh tế. Đồng thời tiếp tục tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát chuyên đề đối với những lĩnh vực mà cử tri đặc biệt quan tâm; luôn đồng hành cùng Chính phủ để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, người dân và huy động hợp lý, hiệu quả các nguồn lực nhằm thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế.

Tại Tọa đàm, các chuyên gia trong và ngoài nước cũng tập trung thảo luận về việc sửa đổi, bổ sung kịp thời các chính sách, biện pháp nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và sớm xây dựng chiến lược, kịch bản phòng chống dịch phù hợp với bối cảnh mới…

Phát biểu kết luận Tọa đàm, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ ghi nhận các ý kiến của các đại biểu, chuyên gia với tâm huyết, trách nhiệm với khát khao cống hiến đóng góp cho đất nước và Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội đánh giá các ý kiến, đề xuất tại Tọa đàm là chất liệu quan trọng để các cơ quan của Quốc hội thẩm tra chính thức các báo cáo kinh tế, xã hội của Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 2 tới; cũng là cơ sở để Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, nghiên cứu và triển khai các công việc thuộc thẩm quyền để cùng với Chính phủ và cả hệ thống chính trị sớm đưa đất nước vượt qua những khó khăn hiện nay./.

 

 

Nguồn: Trung tâm Tư vấn, đào tạo và thông tin tư liệu