Hội thảo “Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025: Đổi mới, sáng tạo và hội nhập trong kỷ nguyên mới
Tin tức sự kiện hoạt động của Viện

Hội thảo “Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025: Đổi mới, sáng tạo và hội nhập trong kỷ nguyên mới

16/01/2025 - 346 lượt xem

Trong khuôn khổ Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh do chính phủ Đức tài trợ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức GIZ tổ chức Hội thảo “Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025: Đổi mới, sáng tạo và hội nhập trong kỷ nguyên mới”. TS.Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM và ông Dennis Quennet, Cố vấn trưởng Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh, GIZ đồng chủ trì Hội thảo. Tham dự Hội thảo có các cơ quan ban ngành, các tổ chức quốc tế, các Viện Nghiên cứu, các chuyên gia trong nước và quốc tế cùng đông đảo cơ quan thông tấn báo chí đến đưa tin.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS.Trần Thị Hồng Minh chia sẻ: Kinh tế toàn cầu đã phục hồi rõ nét trong năm 2024, đặc biệt là trong 6 tháng cuối năm nhờ kinh tế Mỹ tăng trưởng khá tích cực, xu hướng nới lỏng tiền tệ của ngân hàng trung ương ở hầu hết các nền kinh tế chủ chốt, hay chuyển biến nhanh chưa từng có tiền lệ của các công nghệ mới (đặc biệt là trí tuệ nhân tạo - AI). Dù vậy, kinh tế thế giới cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do xung đột địa chính trị diễn biến phức tạp ở nhiều khu vực, gia tăng bất ổn về chính sách sau bầu cử, chủ nghĩa bảo hộ, biến đổi khí hậu và các điều kiện thời tiết cực đoan, gia tăng các quy định về phát triển bền vững ở nhiều quốc gia.

TS.Trần Thị Hồng Minh cho hay, dự báo tình hình thế giới và khu vực trong năm 2025 khá phức tạp, cụ thể là  tại thời điểm này, các kịch bản xung quanh việc Mỹ gia tăng các biện pháp thuế quan và các công cụ chính sách thương mại khác còn nhiều bất định. Bất ổn chính trị ở nhiều nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thúc đẩy đối thoại, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là đầu tư, thương mại, chuyển đổi xanh... Khoa học – công nghệ đang phát triển nhanh, nhưng tác động đối với thay thế việc làm của con người và phân bổ lao động quốc tế đang dần hiện hữu. Việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định xã hội là một yêu cầu cần thiết, song “không dễ” và “không đủ”. Bối cảnh bất định ấy không chỉ toàn “màu xám”, mà đang mở ra không ít cơ hội phát triển cho các nước thu nhập trung bình. Trong đó, khu vực Đông Nam Á đang có nhiều tiềm năng phát triển nhanh. Điều quan trọng là phải tận dụng tối đa các cơ hội, thông qua các cải cách thể chế kinh tế và nâng cao năng lực cho các cơ quan, doanh nghiệp và người lao động một cách kịp thời nhất.

TS.Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM

Theo TS.Trần Thị Hồng Minh vào thời điểm này năm ngoái, Việt Nam còn đang nhìn nhận mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Quốc hội cho năm 2024 (từ 6-6,5%) là rất thách thức, khó khăn. Tuy nhiên, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, Việt Nam đã chuyển nhanh sang thực hiện các giải pháp toàn diện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đặc biệt là trong 6 tháng cuối năm. Sau khi nhiều địa phương hứng chịu tác động nghiêm trọng của cơn bão số 3, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt thực hiện các giải pháp khắc phục hậu quả của bão, ổn định đời sống của nhân dân, và thúc đẩy các hoạt động kinh tế ở các địa phương chịu ảnh hưởng. Bên cạnh đó, việc tăng lương cho các khu vực của nền kinh tế trở nên ý nghĩa hơn nhờ các giải pháp kiềm soát lạm phát. Nhờ đó, Việt Nam đã đạt được những kết quả kinh tế - xã hội ấn tượng, toàn diện. Tăng trưởng kinh tế phục hồi rõ nét, ước đạt 7,09% trong năm 2024. Lạm phát đạt 3,63%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu của Quốc hội. Quan trọng hơn, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và người dân vào triển vọng kinh tế trở nên tích cực hơn, thể hiện phần nào qua các con số như vốn FDI thực hiện đạt tới 25,35 tỷ USD, kiều hối ước đạt tới 16 tỷ USD.

TS.Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh:  Đảng, Nhà nước đã chủ động hoàn thiện khung chính sách cho đổi mới, sáng tạo. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, qua đó đã tạo ra không khí hứng khởi cho cộng đồng khoa học trong những tuần gần đây. Với các chính sách kịp thời, có chất lượng để phát triển các công nghệ mới, Việt Nam đã trở thành “quê hương mới” của nhiều nhà đầu tư lớn. TS. Minh cho rằng, dư địa chính sách cho đổi mới, sáng tạo còn rất nhiều, nếu như kết nối được các lĩnh vực này với chính sách phát triển các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo,...), và nếu kết nối sớm được qua cách tiếp cận thử nghiệm chính sách.

Theo đó, ở một phương diện khác, Việt Nam tiếp tục là điểm đến có kết nối sâu rộng đến các thị trường. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo triển khai hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết và thúc đẩy FTA với một số đối tác mới, trong đó có các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất, hay ủng hộ Anh tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Đồng thời, Việt Nam cũng đang vươn mình, trở thành hình mẫu của đổi mới, sáng tạo và hội nhập.

TS.Trần Thị Hồng Minh cho biết, từ năm 2024 CIEM với vai trò là đại diện của Việt Nam (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tại Ủy ban Kinh tế, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), đã chủ trì xây dựng Chương trình Nghị sự của APEC về cải cách cơ cấu giai đoạn 2026-2030, dự kiến sẽ được các Bộ trưởng APEC thông qua vào cuối năm nay.

Viện trưởng CIEM cũng chỉ ra rằng, Việt Nam đã thẳng thắn nhận diện không ít khó khăn, thách thức, như rủi ro về bẫy thu nhập trung bình, các yếu tố tạo động lực mới cho đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh,... Với tâm thế ấy, các khó khăn, thách thức có thể trở thành “áp lực tích cực” để Việt Nam quyết liệt hơn trong việc thực hiện các cải cách kinh tế có tính căn bản hơn, tập trung vào đổi mới, sáng tạo và hội nhập để có thể hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho năm 2025 và các thập niên tiếp theo.

Ông Dennis Quennet, Cố vấn trưởng Chương trình cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh GIZ

Tiếp đó, ông Dennis Quennet, Cố vấn trưởng Chương trình cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh GIZ phát biểu: Hội thảo là dịp để xem xét quá trình phát triển của kinh tế Việt Nam trong năm 2024 và triển vọng kinh tế năm 2025. Đối với nước Đức, năm 2025 là năm kỷ niệm 50 năm thiết lập mối quan hệ ngoại giao và kỷ niệm hơn 30 năm hợp tác cải cách kinh tế giữa Việt Nam và Đức. Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ về nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế xanh và số. Trong năm 2024, những thành tựu nổi bật của kinh tế Việt Nam là: tăng trưởng kinh tế trên 7%, so với toàn cầu thì Việt Nam đang phục hồi rất mạnh mẽ trong khi phải đối diện với những thách thức lớn và ảnh hưởng thiệt hại kinh tế nặng nề từ cơn bão Yagi. Tiếp đó, tăng trưởng kinh tế đạt được chủ yếu do đầu tư thương mại, ổn định kinh tế vĩ mô. Việt Nam cũng kiểm soát được lạm phát và có tăng trưởng nguồn thu quốc gia. Thêm vào đó, Việt Nam cũng cải thiện rất đáng kể về năng suất lao động trong năm qua mặc dù chậm nhưng theo đúng định hướng để Việt Nam có thể vượt qua được bẫy thu nhập trung bình cũng như phát triển nguồn nhân lực. Theo ông Dennis Quennet, tăng năng suất lao động là một trong những yếu tố rất quan trọng và là dấu hiệu tích cực cho nền kinh tế năm 2024. Ông cũng nhấn mạnh rằng, nền kinh tế Việt Nam năm 2025 cũng rất lạc quan khi chuẩn bị thực hiện những nhiệm vụ mới như ổn định kinh tế vĩ mô; ổn định các hoạt động thương mại; thúc đẩy đầu tư và phát triển nguồn nhân lực; chuyển đổi số và xanh, đổi mới sáng tạo.

Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp, CIEM thay mặt nhóm nghiên cứu của CIEM trình bày tóm tắt Báo cáo. Theo đó, Kinh tế Việt Nam đã phục hồi tăng trưởng rõ nét hơn trong 2 quý cuối năm 2024, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, phản ánh nỗ lực của Việt Nam trong công tác khắc phục hậu quả của siêu bão Yagi. GDP tăng 7,43% trong quý III/2024, và tăng 7,55% trong quý IV/2024. Tính chung cả năm 2024, tăng trưởng GDP ước đạt 7,09%. Theo khu vực, tổng giá trị tăng thêm của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,27%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,24%; khu vực dịch vụ tăng 7,38%. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi tích cực, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 8,4% trong năm 2024 (năm 2023 chỉ tăng 1,3%).

Năng suất lao động (NSLĐ) toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2024 đạt 221,9 triệu đồng/lao động (tương đương 9.182 USD/lao động). Theo giá so sánh, NSLĐ tăng khoảng 5,88%, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2024 (tăng 4,8-5,3%). Trình độ người lao động tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ trong năm 2024 tăng 1,1% so với năm 2023. Theo kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống dân cư năm 2024, thu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) năm 2024 đạt khoảng 5,4 triệu đồng/người/tháng, tăng 8,8%.

Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp, CIEM

CPI bình quân năm 2024 tăng 3,63%, cho thấy lạm phát vẫn được kiểm soát tốt, phù hợp với mục tiêu Quốc hội đề ra là 4-4,5%. Lạm phát cơ bản bình quân đạt 2,71% năm 2024. Việt Nam đã kiểm soát thành công lạm phát trong năm 2024 nhờ các yếu tố khách quan lẫn chủ quan như: (i) lạm phát toàn cầu hạ nhiệt giúp giảm áp lực nhập khẩu lạm phát; (ii) các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp giúp giảm chi phí sản xuất; (iii) việc kịp thời triển khai các giải pháp ứng phó với cơn bão số 3, hạn chế tăng giá quá mức các mặt hàng thiết yếu; và (iv) công tác điều hành chính sách tiền tệ được thực hiện hiệu quả, giúp ổn định tỷ giá một cách tương đối và lãi suất duy trì ở mức tương đối hợp lý, qua đó giảm áp lực cho hoạt động sản xuất – kinh doanh.

Tính chung cả năm 2024, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội ước đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5%, cao hơn mức tăng 6,6% của năm 2023. Nếu loại bỏ yếu tố tăng giá, mức tăng vốn đầu tư năm 2024 ước đạt 3,73%. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục có chuyển biến. Tổng vốn thực hiện của các dự án FDI đạt tới 25,35 tỷ USD trong năm 2024, tăng 9,4% so với năm 2023. Các đối tác đầu tư lớn nhất trong năm 2024 vẫn là các nền kinh tế ở châu Á như Xinh-ga-po, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Công (Trung Quốc).

Dù phải đối mặt với các vụ kiện phòng vệ thương mại và quy định khó khăn hơn ở thị trường nước ngoài, xuất nhập khẩu tiếp tục có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế năm 2024. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2024 ước đạt 786,29 tỷ USD, tăng 15,4%. Thặng dư thương mại hàng hóa đạt 24,77 tỷ USD. Xuất khẩu ước đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3%,kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang các đối tác thương mại lớn tiếp tục tăng trưởng tích cực. Mỹ, Trung Quốc, EU và ASEAN là các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 380,8 tỷ USD, tăng 16,7%. Trung Quốc và ASEAN là những nguồn hàng nhập khẩu lớn nhất và có tốc độ tăng nhanh trong năm 2024.

Nỗ lực thúc đẩy ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã giúp Việt Nam mở rộng tiếp cận đến các thị trường tiềm năng. Trong năm 2024, Việt Nam đã ký kết CEPA với UAE, không chỉ mở ra cơ hội tiếp cận một thị trường tiềm năng lớn ở khu vực Trung Đông và Châu Phi. Thương mại điện tử (TMĐT) đã đạt được những bước tiến vượt bậc, với doanh thu hơn 25 tỷ USD, tăng trưởng tới 20%. Việt Nam tiếp tục chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến TMĐT, tránh việc các sàn TMĐT nước ngoài hoạt động trái pháp luật khi chưa đăng ký ở Việt Nam. Việc hoàn thiện và tổ chức thực thi các quy định về quản lý thuế đối với TMĐT đã được đẩy nhanh. Các thảo luận chính sách cũng cân nhắc nhiều hơn đến tác động của hàng nhập khẩu giá rẻ qua TMĐT đối với các ngành sản xuất trong nước.

Báo cáo chỉ ra triển vọng kinh tế thế giới năm 2025 có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố. Thứ nhất, kinh tế toàn cầu có thể đối mặt với khó khăn, thách thức trong bối cảnh gia tăng bất định, xung đột có thể diễn biến phức tạp ở nhiều khu vực. Thứ hai, giá hàng hóa có thể biến động đáng kể do hệ quả của các cú sốc về khí hậu, căng thẳng địa chính trị leo thang. Thứ ba, cạnh tranh thương mại – công nghệ giữa các siêu cường gia tăng. Thứ tư, Cách mạng Công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Các công nghệ mới (đặc biệt là trí tuệ nhân tạo) sẽ tiếp tục chuyển biến nhanh, qua đó có thể thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất lao động.

Ông Dương cho rằng, trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam có thể có một số cơ hội quan trọng. Thứ nhất, xu hướng phát triển của khoa học – công nghệ có thể giúp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành, hoạt động, sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng, khoa học – công nghệ cao hơn. Thứ hai, Việt Nam sẽ tiếp tục có cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài. Cơ hội từ thu hút đầu tư nước ngoài có thể mở rộng không gian cho tăng trưởng kinh tế thông qua chuyển giao công nghệ. Thứ ba, Việt Nam có thể có cơ hội gia tăng đáng kể năng suất lao động nhờ cải cách thể chế, trong đó có cải cách bộ máy và cải cách thủ tục hành chính.

Ngoài ra, Việt Nam cũng phải xử lý một số vấn đề, thách thức đối với tăng trưởng kinh tế trong năm 2025. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế thế giới có thể phục hồi chậm, thậm chí suy giảm trong năm 2025. Thứ hai, sự phát triển nhanh của các công nghệ mới - bên cạnh các cơ hội to lớn - cũng đặt ra thách thức không nhỏ nếu Việt Nam không sớm hiện thực hóa một cách tiếp cận phù hợp. Thứ ba, thu hút FDI có chất lượng là một yêu cầu đúng đắn, song khó có thể hiệu quả và đúng hướng nếu không kịp thời cụ thể hóa các tiêu chí về chất lượng của dự án, phù hợp với định hướng phát triển của nền kinh tế. Thứ tư, hiện thực hóa tăng trưởng cao là một yêu cầu quan trọng để Việt Nam hướng tới các mục tiêu phát triển đầy tham vọng vào năm 2030 và 2045, song chỉ thực sự có ý nghĩa nếu không đi kèm với áp lực lạm phát cao.

PGS.TS. Lê Xuân Bá, Nguyên Viện trưởng CIEM

Tại Hội thảo, các chuyên gia, đại biểu đã trao đổi, phân tích, kiến nghị về các nội dung, ưu tiên chính sách nhằm duy trì đà phục hồi tăng trưởng gắn với cải thiện chất lượng tăng trưởng, kiểm soát, lạm phát ở mức hợp lý, tận dụng mô hình kinh tế mới, nâng cao hiệu quả thực hiện đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, cải thiện NSLĐ, gắn với thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và các FTA nói riêng.

PGS.TS. Lê Xuân Bá, Nguyên Viện trưởng CIEM cho biết: Báo cáo của CIEM đã vẽ nên bức tranh toàn cảnh kinh tế Việt Nam trong năm 2024 với nhiều thông tin bổ ích. Báo cáo cũng đề cập đến điểm nóng kinh tế Việt Nam, trong năm 2025, Việt Nam có thể chịu tác động từ 4 yếu tố quan trọng: tình hình bất định cao, giá hàng hóa biến động, cạnh tranh thương mại – công nghệ giữa các siêu cường gia tăng, CMCN 4.0 và chuyển đổi số. Từ đó, Báo cáo chỉ ra Việt Nam phải phấn đấu cải cách mạnh mẽ, tiệm cận với các nước phát triển để sánh vai với các nước phát triển. Bên cạnh đó, Báo cáo đã nhấn mạnh hai nội dung tương đối thời sự hiện nay là xuất khẩu xanh và sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vào chuỗi giá giá trị toàn cầu. Những nội dung đã phân tích trong Báo cáo này đã cung cấp cho người đọc và doanh nghiệp những thông tin quý báu. Cuối cùng, Báo cáo đã có những kiến nghị đề, xuất ở góc độ cải cách, đổi mới nền tảng kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho đổi mới cải cách lớn. Đồng thời, có một số khuyến nghị về về các giải pháp kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa nếu được chấp nhận và tổ chức thực hiện tốt, có hiệu quả thì chắc chắc kinh tế Việt Nam trong năm 2025 và những năm tiếp theo sẽ phát triển vượt bậc.

PGS.TS. Bùi Quang Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam

PGS.TS. Bùi Quang Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đánh giá cao chất lượng Báo cáo, đặc biệt là các nội dung xúc tiến xuất khẩu xanh và đẩy mạnh tốc độ tham gia của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong chuỗi giá trị toàn cầu. Theo ông Tuấn, đây là hai vấn đề cấp bách. Hiện nay, các doanh nghiệp rất quan tâm tới xúc tiến xuất khẩu xanh vì hàng rào thuế quan xanh trên thế giới hiện đang vừa là thách thức, vừa là cơ hội. Nếu làm được, các sản phẩm xanh sẽ tiệm cận được cơ hội tạo ra giá trị gia tăng cao hơn. Tuy nhiên, có tới 64% các doanh nghiệp chưa biết cách tham gia vào quá trình xanh hóa, cũng như chuỗi giá trị toàn cầu. Báo cáo đã chỉ ra những cơ hội của kinh tế Việt Nam trong quá trình xanh hóa, những vấn đề còn tồn đọng, giúp doanh nghiệp nâng cao nhận thức, năng lực để vượt qua được hàng rào thuế quan đó.

Các chuyên gia, đại biểu tham dự Hội thảo đều đánh giá cao chất lượng Báo cáo và cho rằng Báo cáo của CIEM khá đầy đủ, toàn diện, sâu sắc với hàm ý chính sách và khuyến nghị có giá trị tham khảo cao.

Các đại biểu tham dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm

Kết thúc Hội thảo, Viện trưởng Trần Thị Hồng Minh thay mặt CIEM trân trọng cảm ơn Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ), Chương trình cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh đã luôn đồng hành cùng Viện và cảm ơn ông Dennis Quennet đã luôn ủng hộ, hỗ trợ nhiệt thành cho Viện; cảm ơn các diễn giả, các đại biểu tham dự và đóng góp ý kiến cho Hội thảo; các phóng viên, đại diện các cơ quan báo chí, truyền thông đã đến đưa tin. Thông qua Hội thảo, CIEM mong muốn được lắng nghe những ý kiến, kiến nghị của các đại biểu để cùng đóng góp hiệu quả vào việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới./.

Nguồn: Trung tâm Thông tin kinh tế - xã hội

 

 

 


 

 


Tin tức khác



Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Địa chỉ: 68 Phan Đình Phùng - Ba Đình - Hà Nội - Việt Nam
Điện thoại: 84-24-38437461. Fax: 84-24-38456795. Email: vanphongciem@mpi.gov.vn
Ghi rõ nguồn "Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương" khi phát hành lại thông tin từ website này
Copyright 2012 by Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Thực hiện bởi