Hội thảo công bố báo cáo “Đánh giá kết qủa ba năm thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) đối với kinh tế Việt Nam”
Hội nghị hội thảo

Hội thảo công bố báo cáo “Đánh giá kết qủa ba năm thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) đối với kinh tế Việt Nam”

27/10/2023 - 4491 lượt xem

Trong khuôn khổ Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh do Bộ Hợp tác kinh tế và phát triển kinh tế Liên bang Đức tài trợ thông qua Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức GIZ, sáng ngày 27/10/2023, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo công bố báo cáo “Đánh giá kết quả ba năm thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) đối với kinh tế Việt Nam”. TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM và Ông Dennis Quennet, Cố vấn trưởng Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh đồng chủ trì hội thảo. Tham dự Hội thảo có các chuyên gia kinh tế, đại diện cơ quan ban ngành, cán bộ nghiên cứu cùng nhiều đơn vị thông tấn báo chí đến đưa tin.

TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM phát biểu khai mạc

Phát biểu khai mạc, TS. Trần Thị Hồng Minh chia sẻ: Giai đoạn 2020-2023 được xem là giai đoạn nhiều khó khăn và thách thức đối với kinh tế thế giới nói chung trong đó có Việt Nam. Dịch bệnh COVID-19, Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc tiếp tục kéo dài, xung đột địa chính trị phức tạp, khó lường ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng của Việt Nam, đặc biệt là xuất khẩu. Trong bối cảnh đó, tìm kiếm thêm các không gian, động lực mới nhằm thúc đẩy phục hồi xuất khẩu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (gọi tắt là EVFTA) ký kết vào ngày 30/6/2019 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/8/2020 được kỳ vọng sẽ tạo thêm động lực quan trọng cho quá trình phục hồi kinh tế cho Việt Nam cũng như Liên minh châu Âu. EVFTA còn là một FTA thế hệ mới, và cũng tạo ra thêm các tiêu chuẩn đủ cao để thúc đẩy quá trình cải cách thể chế kinh tế trong nhiều lĩnh vực như: phát triển bền vững, sở hữu trí tuệ, mua sắm công,… Việt Nam đã có một loạt FTA với các đối tác khác tuy nhiên, các cơ quan, các nhà nghiên cứu đã luôn nhắc tới “tính mới” của EVFTA như là hiệp định thương mại tự do đầu tiên của Việt Nam với EU, đồng thời cũng nhấn mạnh mức độ bổ trợ - thay vì cạnh tranh - trong cơ cấu xuất khẩu của hai bên.

TS. Trần Thị Hồng Minh cũng nhấn mạnh, EU đã là một đối tác quan trọng của Việt Nam trong nhiều thập niên với những nỗ lực mở rộng hợp tác giữa hai bên cả về thương mại, đầu tư, du lịch, hỗ trợ phát triển chính thức. Theo đó, sự kỳ vọng đối với EVFTA là hoàn toàn dễ hiểu và kinh nghiệm từ việc thực hiện các FTA khác trong những giai đoạn trước đó đủ để các cơ quan, doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu Việt Nam hiểu rằng ký kết EVFTA chỉ là một điều kiện cần và để hiện thực hóa lợi ích từ EVFTA đòi hỏi phải có rất nhiều nỗ lực từ phía Việt Nam, Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp, các chủ thể có liên quan thì Việt Nam mới khai thác, tận dụng được tối đa những lợi ích mà Hiệp định thương mại EU mang lại.

TS. Trần Thị Hồng Minh cho biết, Chính phủ và các cơ quan, viện nghiên cứu của Việt Nam đã đặc biệt lưu tâm đến tác động của EVFTA đối với nền kinh tế Việt Nam. Kết quả thực thi Hiệp định EVFTA đã được tổng kết, đánh giá định kỳ (sau một năm và hai năm). Dù vậy, ngay cả khi tập trung vào các đánh giá định tính, các báo cáo đến nay chưa đạt được độ sâu cần thiết. Nguyên nhân một phần là do việc thực hiện EVFTA trong thời gian tương đối ngắn, chưa đủ để dẫn tới những thay đổi đủ sâu rộng trong cơ cấu sản xuất-xuất khẩu của doanh nghiệp và hành vi tiêu dùng của người dân, hộ gia đình. Bên cạnh đó, việc tách rời tác động của EVFTA với tác động của các diễn biến, xu hướng địa chính trị, kinh tế trên thế giới trong các năm 2020-2023 là không dễ.

Ông Dennis Quennet, Cố vấn trưởng Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh phát biểu

Tiếp đó, Ông Dennis Quennet, Cố vấn trưởng Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh phát biểu cho thấy: sau ba năm thực hiện Hiệp định EVFTA, tác động của Hiệp định EVFTA đối với kinh tế Việt Nam thể hiện rõ trong thúc đẩy hoạt động xuất, nhập khẩu qua đó đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Đồng tình với quan điểm của TS. Trần Thị Hồng Minh, ông Dennis Quennet khẳng định Hiệp định EVFTA là Hiệp định thương mại thế hệ mới, có tác động và ảnh hưởng đến các chủ thể trong nền kinh tế từ các doanh nghiệp đến nhà nước và Hiệp định sẽ thúc đẩy nền kinh tế xanh tại Việt Nam. Theo ông, mối quan hệ đối tác giữa Việt Nam và EU ngày càng trở nên chặt chẽ hơn và EU luôn coi trọng Việt Nam là đối tác chiến lược của mình và những động thái trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam là mối quan tâm của EU. Việc ký Hiệp định EVFTA là một trong những bước tiến ghi nhận sự đóng góp cũng như thúc đẩy mối quan hệ giữa Việt Nam và EU. Ông đặc biệt cảm ơn sự hợp tác của CIEM và đánh giá cao chất lượng của báo cáo "Đánh giá kết qủa ba năm thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) đối với kinh tế Việt Nam" do CIEM công bố.

Đại diện nhóm Nghiên cứu, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban, Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM

Đại diện nhóm Nghiên cứu, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban, Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM trình bày tóm tắt kết quả nghiên cứu báo cáo. Cụ thể, trong 3 năm thực thi, EVFTA đã góp phần tạo điều kiện cho xuất khẩu vào EU phục hồi mạnh mẽ, nhất là trong hai năm đầu. Xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU (không tính Anh) trong giai đoạn 2012 - 2022 có xu hướng mở rộng quy mô và đối tác, tốc độ tăng trưởng trung bình xuất khẩu đạt 10,5%/năm, nhập khẩu đạt 6,4%/năm. Trong giai đoạn 2020 - 2022, sau khi EVFTA được ký kết, xuất khẩu sang thị trường EU phục hồi từ mức giảm 1,8% năm 2020 lên tăng 14,2% năm 2021 và 16,8% năm 2022.Tác động đối với xuất khẩu vào EU trong năm thứ ba có phần kém tích cực hơn, có thể là do kinh tế thế giới nói chung và kinh tế EU nói riêng gặp những khó khăn do nhiều yếu tố (xung đột địa chính trị; xung đột Nga - Ukraine; tăng giá hàng hóa trên thị trường thế giới và áp lực lạm phát; lãi suất điều hành và các quy định đối với nhập khẩu có xu hướng gia tăng ở thị trường EU,…).

Theo kết quả nghiên cứu, EVFTA cũng giúp cho Việt Nam tăng cường nhập khẩu thiết bị máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, góp phần cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, giúp tiêu chuẩn các sản phẩm tăng cao hơn và tăng khả năng gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới. Đối với đầu tư nước ngoài, tác động với dòng vốn đầu tư từ EU vào Việt Nam cũng cho thấy những cải thiện rõ rệt xét trong tổng thể kết quả thu hút FDI của Việt Nam. Với nhiều ưu đãi thuế quan và gỡ bỏ các hạn chế tiếp cận thị trường trong nhiều lĩnh vực, EVFTA đã mở rộng cửa cho các nhà đầu tư EU tiếp cận và mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Tỷ trọng vốn đăng ký từ các nhà đầu tư EU tăng từ khoảng 5% tổng vốn đăng ký bình quân giai đoạn 2016 - 2020 lên mức 8,9% năm 2022 và 9,2% trong 6 tháng đầu năm 2023. Mặc dù chịu ảnh hưởng không nhỏ của đại dịch COVID-19 bùng phát năm 2020, nhưng đầu tư từ EU vào Việt Nam ít nhiều đã tăng sau đại dịch. Hà Lan, Pháp, Luxembough, Đức, Đan Mạch, Bỉ lần lượt là 6 nhà đầu tư hàng đầu của EU vào Việt Nam. Dù vậy, nếu so sánh vốn đăng ký lũy kế tại thời điểm cuối tháng 7/2023 với vốn đăng ký lũy kế tại thời điểm 7/2020, có thể thấy tác động của EVFTA đối với thu hút vốn FDI từ EU còn tương đối khiêm tốn.

Từ góc độ thể chế, EVFTA đã phát huy vai trò thúc đẩy cải cách thể chế. Kết quả phân tích cho thấy, các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững, dịch vụ tài chính và mua sắm công đều có nhiều điều chỉnh về các thể chế, văn bản quy phạm pháp luật, và hệ thống pháp luật Việt Nam phần lớn đã tương thích với các cam kết trong EVFTA. Tiến độ chuẩn bị một số văn bản quy phạm pháp luật để triển khai EVFTA có phần nhanh hơn so với CPTPP, có thể do đã rút kinh nghiệm từ quá trình tổ chức thực thi CPTPP. Tuy nhiên, Việt Nam cần cân nhắc cách tiếp cận đối với một số cam kết trong một số lĩnh vực, tránh nội luật hóa một cách quá cứng nhắc và ảnh hưởng đến khả năng thích ứng của thị trường trong nước trước các diễn biến, bối cảnh mới.

Để khai thác tối đa lợi ích từ Hiệp định EVFTA trong bối cảnh cải cách thể chế kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam, báo cáo đã đưa ra 7 khuyến nghị cụ thể, bao gồm: Thứ nhất, rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ, nhất quán các cam kết, trong đó có cân nhắc thực hiện một số điều chỉnh chính sách cao hơn cam kết nếu thực sự cần thiết và phù hợp với bối cảnh mới. Thứ hai, tăng cường sự phối hợp đồng bộ từ trung ương tới địa phương. Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến về FTA tới các khối doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa.Thứ tư, nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Thứ năm, tăng cường và đổi mới các hoạt động xúc tiến thương mại, định hướng thị trường xuất khẩu nhằm tận dụng cơ hội từ EVFTA. Thứ sáu, rà soát, đơn giản hóa các quy định, thủ tục về cấp giấy chứng nhận C/O cho doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường đối tác. Thứ bảy, chủ động nghiên cứu các nội dung liên quan đến cải cách cơ cấu nhằm hỗ trợ thực thi EVFTA.

TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh

 PGS.TS. Nguyễn Chiến Thắng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Âu,

Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam 

Tại Hội thảo, trong phần bình luận của chuyên gia, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh và PGS.TS. Nguyễn Chiến Thắng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Âu, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam đã có những đánh giá tích cực về báo cáo và đưa ra một số nhận xét, góp ý về các nội dung liên quan để nhóm nghiên cứu của CIEM tham khảo. Các đại biểu cũng trao đổi về tồn tại, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong việc thực thi EVFTA trong giai đoạn 2020-2023.

Toàn cảnh Hội thảo

Phát biểu bế mạc, TS. Trần Thị Hồng Minh cảm ơn các ý kiến đóng góp của các chuyên gia, đại biểu cho báo cáo. Trên cơ sở đó, CIEM sẽ cân nhắc nghiên cứu đưa ra những kiến nghị chính sách cụ thể về việc thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu với các cơ quan, Chính phủ và doanh nghiệp trong thời gian tới./.

 

Nguồn: Trung tâm Thông tin kinh tế - xã hội

 


Tin tức khác