Hội thảo công bố Báo cáo: “Nghiên cứu các vấn đề về giới trong di cư trong nước và tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam”
Tin tức

Hội thảo công bố Báo cáo: “Nghiên cứu các vấn đề về giới trong di cư trong nước và tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam”

23/04/2021 - 929 lượt xem

Với sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), sáng ngày 23 tháng 4 năm 2021, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo“Nghiên cứu các vấn đề về giới trong di cư trong nước và tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam”. Hội thảo do ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Viện trưởng CIEM chủ trì.

Hội thảo có sự tham dự của các diễn giả là các chuyên gia kinh tế, các đại biểu đến từ Ban, ngành, cơ quan Trung ương và đại diện các báo, đài truyền hình đến đưa tin.

Về nội dung của buổi Hội thảo, ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương chia sẻ: Nghiên cứu này nhấn mạnh lại thông điệp các địa phương cần lồng ghép yếu tố giới nói chung, giới trong lao động di cư nói riêng vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương.

Ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Viện trưởng CIEM 

Ông Hồ Công Hòa, Phó Trưởng Ban nghiên cứu các vấn đề xã hội, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thay mặt nhóm nghiên cứu trình bày bản Báo cáo. Theo nghiên cứu, di cư nội địa là nhu cầu tất yếu của phát triển, giúp các địa phương có thêm nguồn lực để cấu trúc lại nền kinh tế, đồng thời cũng tạo nên áp lực về cơ sở hạ tầng và các vấn đề xã hội tới các địa phương. Di cư là yếu tố quan trọng, là động lực tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần phân bổ lại dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao động, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững của Chính phủ. Kinh tế phát triển, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế diễn ra nhanh chóng dẫn tới sự gia tăng nhanh chóng của di cư nội địa.

Nghiên cứu tập trung vào các nội dung chính như: (i) Tổng quan các vấn đề về giới trong di cư nội địa với tái cơ cấu nền kinh tế; (ii) Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về di cư nội địa dưới góc độ giới;  (iii) Khái quát về di cư nội địa trong quá trình tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua; (iv) Vấn đề cơ cấu lao động, thu nhập và các vấn đề xã hội của lao động di cư nội địa trong tái cơ cấu kinh tế dưới góc độ giới ở Việt Nam; (v) Đề xuất giải pháp lồng ghép các yếu tố giới trong tái cơ cấu nền kinh tế đảm bảo quyền của phụ nữ di cư.

Ông Hòa nhấn mạnh: thay đổi cơ cấu kinh tế tất yếu làm thay đổi cơ cấu lao động và làm tăng dòng dịch chuyển nguồn lao động từ nông thôn ra thành thị. Thêm vào đó, nơi nào có thu nhập cao hơn vùng khác thì tỷ suất di cư thuần dương có xu hướng tăng nhập cư nguồn lao động từ nơi có thu nhập thấp hơn tới. Ngược lại, nơi nào có thu nhập thấp hơn vùng khác thì xu hướng xuất cư là chủ yếu.

Ông Hồ Công Hòa, Phó Trưởng Ban nghiên cứu các vấn đề xã hội 

Từ kết quả nghiên cứu cho thấy các tác động tích cực và tiêu cực của di cư đến cả nơi đến lẫn nơi đi, cụ thể:

- Đối với nơi đến: Người di cư giúp bổ sung nguồn lao động quan trọng cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nơi đến, đồng thời thúc đẩy phát triển dịch vụ do nhu cầu chi tiêu trong sinh hoạt và vui chơi giải trí của người di cư. Tuy nhiên, sức ép về cơ sở hạ tầng, bao gồm từ cơ sở hạ tầng cứng (nhà ở, điện, nước, giao thông, y tế) đến các cơ sở hạ tầng mềm (là cơ hội tham gia các hoạt động xã hội của nơi đến), an ninh trật tự, tạo ra các cạnh tranh với lao động địa phương và nảy sinh sự chênh lệch về giới. Đặc biệt là địa phương có các khu công nghiệp sử dụng lao động nữ nhiều, sự chênh lệch giới trở lên nghiêm trọng, tác động không nhỏ đến cơ sở hạ tầng vốn còn yếu như nhà ở an toàn cho nữ giới, nhà trẻ cho con em họ, các khu vui chơi, giải trí. Ở một khía cạnh xã hội khác, việc nữ di cư đến làm ăn và sinh sống nhiều ở địa phương làm tăng tỷ lệ kết hôn khác quê.

- Đối với nơi đi: Việc di chuyển nguồn lao động tới các địa phương khác đã tạo ra nguồn thu nhập đáng kể phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân người di cư, đồng thời giúp tích lũy và có một khoản tiền nhỏ gửi về cho gia đình phục vụ chi tiêu và tích lũy đầu tư. Tuy nhiên, nguồn lao động di cư đi nơi khác cũng tạo ra các áp lực đối với vấn đề xã hội của nơi đi. Thiếu hụt lao động ở một số ngành/nghề, các vấn đề xã hội như gia đình thiếu vắng vai trò của người mẹ/người bố, việc chăm sóc trẻ em phụ thuộc vào ông bà cũng phần nào ảnh hưởng tới kết quả học tập và tâm lý của trẻ em, tăng nguy cơ xâm hại tình dục trẻ em. Việc chăm sóc người già ở nơi đi cũng là một vấn đề, do thiếu người chăm sóc lúc ốm đau, những người già ở đây đôi lúc trở lên cô đơn trong ốm đau, thiếu người chăm sóc, không đưa đi chữa trị kịp thời. Ngoài ra, việc xa cách vợ chồng cũng làm tăng tỷ lệ ly hôn ở nơi đi.

Việc “nữ hóa” di cư nảy sinh nhiều vấn đề xã hội kèm theo, đặc biệt là vấn đề nhà ở. Vấn đề nhà ở cho người di cư không chỉ đơn thuần là chỗ ăn, ngủ, mà đó còn là vấn đề tiếp cận các dịch vụ công, vấn đề an ninh, an toàn và đảm bảo vệ sinh, vui chơi giải trí, phục hồi sức lao động, vấn đề trường lớp cho con cái của người di cư, đặc biệt là nữ di cư. Chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động di cư nội địa toàn quốc và ngày càng gia tăng về số lượng, nhưng do các tính đặc thù lao động nữ di cư từ nông thôn ra đô thị hiện là nhóm chịu nhiều rủi ro vì thiếu các chính sách hỗ trợ đặc thù về an sinh xã hội. Việc bảo vệ, hỗ trợ và thúc đẩy hòa nhập cộng đồng cho nhóm lao động này thông qua phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ công, tiếp cận đào tạo và cơ hội việc làm,... là quan trọng và cần thiết hiện nay.

Để đảm bảo phát triển bền vững, không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình tái cơ cấu kinh tế các địa phương cần xem xét ưu tiên chuyển đổi cơ cấu phù hợp với tình hình địa phương mình, đặc biệt lồng ghép yếu tố giới nói chung, giới trong lao động di cư nói riêng vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương.

Theo đó, đối với địa phương tiếp nhận nhiều lao động di cư: Cần đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển các ngành, lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao, ít sử dụng lao động nhằm giảm áp lực lên cơ sở hạ tầng, đồng thời đẩy mạnh các phương án quy hoạch cơ sở hạ tầng cứng và mềm cho người lao động di cư. Đặc biệt cần có các kế hoạch phân bổ nguồn thu có được phân bổ trở lại đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho người di cư để đảm bảo tính bền vững của phát triển. Lồng ghép các yếu tố giới trong di cư vào quá trình lập chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trung hạn và hàng năm của địa phương.

Đối với các địa phương có nhiều người xuất cư, trước mắt có thể ưu tiên chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là giúp tạo nhiều việc làm cho lao động địa phương. Chú trọng lập kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng mềm bao gồm các cơ chế, chính sách và kế hoạch thực hiện hướng tới bảo vệ và chăm sóc trẻ em, người già, người cô đơn và xây dựng tốt hành trang cho người di cư để không ai bị bỏ lại phía sau. Nhưng về lâu dài, cần đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển các ngành, lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao, năng suất lao động cao để cải thiện điều kiện kinh tế của địa phương, theo đó mới cải thiện được tỷ lệ xuất siêu lao động của địa phương. Vì vậy, đi đôi với phát triển hạ tầng mềm, địa phương cũng cần có các giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng cứng phục vụ cho việc thu hút nhà đầu tư,

Với các biểu hiện về các vấn đề xã hội nảy sinh do sự dịch chuyển luồng di cư cả nơi đi và nơi đến cần tiếp tục được nghiên cứu, đặc biệt là tiến hành điều tra xã hội học về tâm lý và tình hình chăm sóc trẻ em và người già ở nơi đi, tình trạng xâm hại tình dục trẻ em, tỷ lệ ly hôn,...

Toàn cảnh Hội thảo 

 

Nguồn: Trung tâm tư vấn, đào tạo và thông tin tư liệu

 


Tin tức khác